Trược khí bắt đầu từ nội tâm ô nhiễm nơi mình. Hàng ngày chúng ta tiếp xúc với các cảnh giới bất thiện như sát sanh, tà hạnh trên mạng, trong phim ảnh, sách truyện, hoặc ngoài đời thực, là đã thu về trược khí. Vì phàm phu còn duyên theo ngoại cảnh nên không tránh khỏi tập nhiễm thế gian.

Nên trược khí tồn tại là do nghiệp lực của mỗi người chiêu cảm. Hoặc do dính mắc với quỷ thần, bị oan gia trái chủ đeo bám, khiến tâm trí trì trệ, lười biếng, cơ thể toát mùi hôi, tuỳ theo mức độ nhiễm trược mà mắc các bệnh nặng nhẹ khác nhau.
Thông thường, người bị nhiễm trược là do tiếp xúc với người bệnh, người chết, tiêu thụ các thức ăn bất tịnh và đến những nơi có nhiều âm khí như đám tang, bệnh viện, đền miếu thờ quỷ thần hoặc dính tà thuật như bùa ngãi. Nhẹ thì mắc bệnh lặt vặt, nặng thì lâm trọng bệnh, hoặc thất thần, điên loạn như bị vong nhập.
Do tâm ta chưa thanh tịnh, cơ thể không thuần dương, kinh mạch chưa thông, nên dễ bị các năng lượng tiêu cực trú ngụ, nên rất cần sự tu tập và tránh duyên.
Trước có một Phật tử, do hộ niệm người lâm chung, phụ đỡ người mất ấy, mà bị bàn tay người chết quàng qua vai, in năm dấu tay tím bầm vào người. Đó là do không đủ đạo lực, siêu độ cho các oan gia trái chủ của người mất, nên bị phản tác dụng.
Cho nên, quý vị làm gì cũng phải tự lượng đức của mình. Huống chi có những người ngạo mạn, tu còn lem nhem mà làm bừa, chữa bệnh cho người khác, lâu ngày bị nhiễm trược khí của bệnh nhân, tự rước họa vào mình. Nên những người hành nghề tiếp xúc trực tiếp với người khác như massage, bấm huyệt trong đông y đều dễ bị mất sinh lực. Do vô tình bị người khác hấp thu chân khí, không đủ đạo lực tống trược khí họ ra, vì kinh mạch đương cơ bị bế, nên truyền ngược lại.
Do đó, quý vị Phật tử mới tu tập, đừng ham làm thầy chữa bệnh. Khi chưa ra khỏi Ngũ Ấm ma, thì mọi dục vọng cứu người, để thỏa lòng tư dục của mình đều là chướng đạo. Dù mật chú có công năng trừ tà, chữa bệnh nhưng thần thông chẳng phải là cứu cánh của Phật giáo.
Sở dĩ các bậc cao tăng sử dụng phương tiện này, đều do lòng từ bi muốn hóa độ chúng sanh, chứ không vì danh lợi. Huống chi khi can thiệp vào nhân quả của người khác, đối với pháp hoán đổi ngã tha, quý ngài đã ít nhiều giải ngộ lý Bát Nhã nên không bị trược khí của chúng sanh mê hoặc.
Còn đối với hành giả sơ cơ, tốt nhất nên giữ các giới đã thọ. Vì sao? Như người thề thốt tự tử, thì sẽ có quyến thuộc của loài ma ấy đi theo xúi giục cho họ tự tử. Hành giả tụng giới, sẽ ngăn chặn các loài ma phá giới quấy nhiễu. Như vậy, bất kì thân phần nào phạm giới, sẽ dễ dàng làm nơi trú ngụ của các loài tà tinh ly mị vọng lượng quyến thuộc. Đó là căn cơ của trược khí.
Vì vậy, mà chúng ta cần phải tu tập, hành trì chú Đại bi, chú Lăng Nghiêm. Bản chất hàng ma tức là hàng phục vọng tâm của mình. Nên chẳng có ma nào từ ngoài đến, nếu ba nghiệp thanh tịnh. Việc lễ Phật khiến cho kinh mạch thông suốt rất cần thiết. Ngoài ra còn phải hồi hướng cho oan gia trái chủ. Đó là nhìn theo góc độ tâm linh.
Đối với ngoại cảnh, nên hạn chế cho sáu căn tiếp xúc với các cảnh duyên đắm nhiễm. Phải hạn chế đến các nơi có nhiều âm khí, trừ khi hữu sự. Việc xông trầm tẩy uế cho không gian sống, tuy cần thiết nhưng đó chỉ là việc ngoài da. Đối với các trạng thái nhiễm trược thông thường có thể lấy lá trầu nhúng rượu đánh như cạo gió, tắm nước lá nhãn chữa trị. Còn đối với bệnh nặng hơn, nên cầu các bậc cao tăng trợ duyên.
Tóm lại hành giả đại thừa, bỏ chú Lăng Nghiêm và chú Đại Bi là thất sách.
Thích Như Dũng














