Kiên Giang: Khảo hạch giới tử tại Đại giới đàn Giác Phước PL.2568 – DL.2024
Vào thời nhà Nguyên, thế kỷ XIII – XIV, đạo Phật vẫn là một tôn giáo quan trọng trong đời sống xã hội đương thời. Các tác phẩm nghệ thuật cũng lấy đề tài Phật giáo làm đối tượng trong sáng tác. Ở đó, gốm sứ là một loại hình quan trọng bậc nhất.
1. Vài nét về gốm sứ men ngọc Long Tuyền
“Long Tuyền” 龍泉 là tên gọi của một dòng gốm sứ Trung Hoa với màu sắc điển hình như màu xanh của ngọc, xanh “green”. Người Trung Hoa xếp chúng vào nhóm “thanh từ” 青瓷, tức là gốm sứ màu xanh. Khái niệm “thanh từ” 青瓷 có nội hàm rộng hơn, trong đó bao gồm những dòng gốm men xanh từ thời Hán, Lục Triều, Đường, cho đến thời Tống với các dòng như Diệu Châu diêu 耀 州 窯, Nhữ diêu 汝 窯, Long Tuyền diêu 龍 泉 ; và kể cả các dòng men xanh ở những triều đại sau này.
Phương Tây gọi dòng gốm sứ này là “celadon”, và gọi theo cách hiểu của đa số người sưu tầm Việt là đồ “C” hoặc “men ngọc”, hoặc nhiều khi cũng gọi tắt cho dòng gốm sứ này là “Ngọc Long Tuyền”. Rõ ràng, đó là một cái tên sang trọng, quý phái!
Theo các tài liệu khảo cổ, Long Tuyền được sản xuất từ khoảng năm 950 đến 1550. Các lò nung chủ yếu nằm ở quận Lệ Thủy 麗 水, về phía tây nam tỉnh Chiết Giang 浙江, thuộc nam Trung Hoa; và một số ở phía bắc của tỉnh Phúc Kiến 福 建. Nhìn chung, tổng cộng có khoảng 500 lò đã được phát hiện. Đây là cơ sở để kết luận rằng việc sản xuất dòng gốm sứ này đã từng rất phát triển và mở rộng trên quy mô lớn, khiến các lò nung trở thành một trong những khu vực sản xuất lớn nhất trong lịch sử gốm sứ Trung Hoa.
Ở một góc độ nào đó, có thể hiểu khái niệm “celadon” của phương Tây tương ứng với khái niệm “thanh từ” của người Trung Quốc.
Việc sản xuất celadon, như đã nói, có từ trước thời Tống. Tuy nhiên, cũng như nhiều dòng gốm sứ khác, đến thời Tống, celadon mới thực sự có những bước tiến vượt bậc. Trước hết là giai đoạn đầu – Bắc Tống (906 – 1127) đã tạo ra rất nhiều sản phẩm chất lượng cao, tạo hình phong phú, mĩ thuật tinh tế… như dòng Diệu Châu diêu và đỉnh cao là Nhữ diêu – một dòng quan diêu – phục vụ cho triều đình với số lượng hạn chế. Nhưng đến giai đoạn Nam Tống (1127-1279) thì việc sản xuất celadon mới lên tới đỉnh điểm và tiêu biểu chính là celadon Long Tuyền. Ở giai đoạn này triều đình có sự quan tâm lớn hơn nên quy mô sản xuất mới thực sự được mở rộng và chất lượng sản phẩm cũng vượt xa giai đoạn trước đó. Và cũng từ đây celadon Long Tuyền không chỉ sản xuất để phục vụ cho nhu cầu nội địa mà đã hướng ra thị trường bên ngoài. Như những dòng gốm sứ khác thời Nam Tống, celadon Long Tuyền đã xuất khẩu sang nhiều nước láng giềng, và có lẽ, Việt Nam là nhiều hơn so với các nước trong khu vực. Điều này hoàn toàn logic, vì trước hết là khoảng cách địa lý giữa nước ta với Trung Quốc; thứ hai là sự ảnh hưởng văn hoá của Trung Quốc lên Việt Nam sâu sắc hơn nhiều so với những quốc gia khác ở Đông Nam Á lúc đương thời. Ngoài ra có thể là tâm lí ưa chuộng các sản phẩm gốm sứ “thiên triều” của tầng lớp quý tộc nước ta. Thực tế này còn kéo dài cho tới thời Trịnh – Nguyễn phân tranh và cuối cùng là vương triều Nguyễn mà biểu hiện rõ nét đó chính là dòng sứ men lam đặt làm tại Trung Hoa (gọi tắt là Kí Kiểu).
Cũng nói thêm rằng các sản phẩm thời Nam Tống luôn có mặt trên nước ta nhiều hơn so với thời Bắc Tống. Có lẽ, một là do yếu tố thời gian (lùi xa hơn) và quy mô sản xuất (hẹp hơn); hai là yếu tố không gian, thời Nam Tống các lò gốm di chuyển về phương Nam theo triều đình vì vậy càng gần với lãnh thổ nước ta hơn, đồng thời giai đoạn này việc sản xuất được tiến hành trên quy mô hơn.
Có thể nói màu men của ngọc Long Tuyền luôn có sức hút mạnh mẽ đối với thị trường trong và ngoài lãnh thổ Trung Hoa; sự mê hoặc của nó không chỉ bởi cái màu tựa như ngọc bích mà còn bởi người ta tin rằng nó có thể dùng để phát hiện ra độc tố bằng cách tự biến đổi màu sắc. Đây có thể là sự phản ánh cho sự yêu chuộng dòng gốm sứ này quá lớn dẫn tới sự ra đời của nhiều câu chuyện nhuốm màu sắc li kỳ huyền bí về nó mà thôi!
Một điểm rất đáng lưu ý: celadon Long Tuyền nên được phân loại là gốm (earthenware/ stoneware) hay là sứ (porcelain)? Điều này không hề dễ dàng. Nếu theo tiêu chí phương Tây, các dòng celadon luôn được xem là stoneware (cốt đá), nghĩa là không phải sứ. Tuy nhiên, đối với Trung Quốc họ chỉ phân loại thành hai lớp: gốm nhẹ lửa (low-fired earthenware) và sứ nặng lửa (high-fired pỏcelain). Trong khi đó celadon Long Tuyền thường được nung ở nhiệt cao thì hẳn nhiên nó phải là đồ sứ (porcelain). Nhìn chung sự phân loại này chưa có hồi kết. Theo quan điểm cá nhân tôi, dựa trên quan sát các hiện vật thấy rằng đối với celadon Long Tuyền cần phân thành hai loại: gốm và sứ. Vì lẽ, một bên là những hiện vật với cốt đất có màu xám và nung nhiệt không quá cao nên tiếng kêu đục, men hay rạn theo thời gian. Và một bên là cốt có màu gần như trắng (sát với cốt sứ), nung ở nhiệt rất cao; nên đanh chắc, tiếng kêu vang, ít hoặc không bị ran theo thời gian. Loại thứ hai này phải xếp vào nhóm sứ (porcelain) mới hợp lý với tính chất kĩ thuật, sự sáng tạo, công sức lao động của người nghệ nhân xưa.
Màu chủ đạo của celadon Long Tuyền là xanh ngọc, xanh “green” nhưng thực tế có các sắc thái khác nhau trên một dải rộng từ màu xanh xám, xanh ô-liu; đến xanh lam và cả xanh lục (nhưng ít phổ biến). Đặc biệt hơn, còn có một số mẫu màu nâu vàng. Màu này trên gốm sứ ngọc Long Tuyền là khá ít và rất độc đáo.
Cũng lưu ý rằng ngay cùng một màu men thì các sắc độ có thể khác nhau bởi tính chất dòng đồ phục vụ cho các giai tầng trong xã hội. Theo quan sát, màu men ngọc thuộc “quan dụng” có màu sắc xanh ngọc hơi có ánh lam, như sự giao hòa giữa hai màu lục thủy và thiên thanh, trông rất tươi sáng, sang trọng. Nhìn chung loại này có sự gần gũi về màu đối với dòng Nhữ diêu trứ danh. Đây cũng là một lí do khiến một số nhà sưu tầm nước ta thỉnh thoảng nhầm lẫn – cứ hay lấy một món đồ celadon Long Tuyền đang sở hữu đem so với những món Nhữ diêu đã đấu giá trên thị trường quốc tế.
Về kiểu dáng và trang trí, có thể nói các sản phẩm ngọc Long Tuyền hết sức phong phú, đa dạng: tạo tác từ đơn giản đến phức tạp cầu kỳ. Điều này cũng dễ hiểu vì có hơn 500 lò sản xuất và trải qua lịch sử hơn 500 năm. Theo quan sát, kinh nghiệm, có hai điểm cần nhận diện: một là, các celadon Tống thường có sự tinh tế, sắc sảo hơn trong việc tạo thai cốt cho đến đường nét trang trí; hai là các celadon Nguyên, Minh thì mới chú ý đến nhiều sản phẩm có kích thước lớn hơn. Thực ra, không chỉ dòng celadon, mà hầu như các dòng đồ Tống thường làm ở kích thước nhỏ hoặc vừa phải, có lẽ đây là một xu hướng, quan niệm thẩm mĩ của cả xã hội lúc bấy giờ.
Nhìn chung celadon Long Tuyền đã tiếp nối và kế thừa từ những tinh hoa của celadon Bắc Tống. Đó là một loại celadon được sản xuất tại phía bắc Trung Hoa. Nó cũng có nhiều điểm tương tự so với celadon Long Tuyền, tuy nhiên cũng có không ít sự khác biệt về bản chất. Hẳn nhiên, nó được ra đời từ thời Bắc Tống và cũng dần kết thúc khi nhà Tống bị quân Kim chiếm đóng buộc phải dời kinh đô xuống phía Nam Trung Hoa.
Sau thời Tống, ngọc Long Tuyền tiếp tục được sản xuất kéo sang đến hết thời Nguyên (1271 – 1368) và mãi đến giai đoạn đầu của thời Minh. Và như một quy luật, sau cao trào sẽ đến thoái trào, sự xuất hiện của sứ thanh hoa từ Cảnh Đức Trấn đã khiến cho celodon Long Tuyền có một kết cục tương tự như dòng Qingbai. Có lẽ, đây là quy luật chung mà tất cả những dòng gốm sứ đơn sắc (monochrome) phải khép lại và nhường chỗ cho một dóng gốm sứ mới, một thời kỳ mới – thời kỳ rực rỡ của màu chàm cobalt được nhập từ Trung Đông bắt đầu. Đây cũng là một tâm lí chung của con người – luôn thích thú với những điều mới mẻ. Điều an ủi đối với dòng men ngọc Long Tuyền là dù sao nó cũng được kéo dài hơn so với Qingbai và trong suốt triều Nguyên vẫn có những tác phẩm xuất sắc không kém gì thời Nam Tống.
2. Tượng Quan Âm cầm gậy Như ý
Tiêu biểu cho những sản phẩm Long Tuyền triều Nguyên phải nhắc đến các tác phẩm tượng với nhiều kiểu thức độc đáo, sinh động và tinh tế.
Thực tế, trong sưu tầm cổ vật, tượng cổ luôn được xem là loại hiện vật đứng đầu.
Vì, tượng ngay từ khi nó ra đời đã là độc bản, và tổng số lượng của nó bao giờ cũng ít so với những chủng loại khác, đó là chưa kể qua những biến thiên lịch sử, tượng vỡ nát, hư hại nhiều nên số còn sót lại là rất ít.
Ngoài ra, tượng không chỉ mang lại giá trị nghệ thuật mà còn toát lên vẻ thần bí, bí hiểm của đời sống tâm linh.
Vào thời nhà Nguyên, thế kỷ XIII – XIV, đạo Phật vẫn là một tôn giáo quan trọng trong đời sống xã hội đương thời. Các tác phẩm nghệ thuật cũng lấy đề tài Phật giáo làm đối tượng trong sáng tác. Ở đó, gốm sứ là một loại hình quan trọng bậc nhất. Như đã biết, lịch sử Trung Hoa được mặc định gắn liền với lịch sử của gốm sứ. Do vậy, trong giai đoạn này xuất hiện một mô-típ tượng Quan Âm độc đáo,tinh tế, đấy ấn tượng và mang nhiều đặc trưng. Đó là kiểu thức Quan Âm cầm gậy Như ý với ý nghĩa tượng trưng cho sức mạnh và quyền năng để phátan những trở ngại, phiền não, khổ đau trong cuộc sống; để cứng rắn, kiên trì trên con đường tu tập đi đến giác ngộ. Ngoài ra, tượng còn biểu trưng cho sự cát tường, như ý và an lạc.
Ở kiểu thức này, Ngài Quan Âm ngồi với dáng vẻ tựtại, một chân xếp bằng, một chân co gối cao lên; đôi tay thì, một tay cuốn trong ống tay áo, hoặc có khi đặt bàn tay buông lỏng lên gối, nhưng tay còn lại luôn phải cầm chiếc gậy Như ý, mặt gậy đặt hướng lên trên, một đầu gậy nằm lọt trong lòng bàn tay, đầu còn lại tựa vào trong khuỷu tay. Cách cầm nhìn rất nhẹ nhàng, khoan thai. Mặt Ngài trông đầy đặn, phúc hậu mà oai nghiêm. Nhìn chung, khuôn mặt vẫn giữ nét đặc trưng, điển hình như phong cách phổ biến của tượng Phật Trung Hoa. Điểm đặc biệt ấn tượng ở đầu tượng, chính là phần mái tóc; tóc được chải chuốt kỹ càng bên dưới, rồi quấn lại thành một búi cao lên trên ngay đỉnh đầu. Có tượng chi tiết hơn, ngay phần búi tóc còn làm cả một cái trâm ngọc ghim xuyên qua. Phần cổ bao giờ cũng có nhiều ngấn, và ngay dưới đó được trang trí bằng một vòng chuỗi hạt đơn (hoặc kép), có đính thêm một sợi hạt ngay giữa thòng xuống.
Nhìn chung, với kiểu thức Quan âm này, nó vốn đã độc đáo, lại còn được khoác trên mình lớp men ngọc càng khiến cho pho tượng trở nên đẹp đẽ, sang trọng, uy nghi, ấn tượng. Và vì vậy, tác phẩm sẽ hút hết mọi ánh nhìn của bất cứ người thưởng lãm khó tính nào khi đang đứng đối diện trước nó.
———-
Chú thích:
Thông tin hiện vật:
Tượng Quan Âm cầm gậy Như ý, men ngọc Long Tuyền, triều Nguyên, thế kỷ XIII – XIV.
Kích thước: Cao: 35cm ; ngang (chỗ rộng nhất): 20cm.
* Tác phẩm nằm trong bộ sưu tập cá nhân của tác giả Nguyễn Thanh Huy.
Nguyễn Thanh Huy
Giảng viên Trường Đại học Khánh Hòa
Liên hệ: Facebook
https://www.facebook.com/nguyenthanhhuy.gv?mibextid=LQQJ4d
Kiên Giang: Khảo hạch giới tử tại Đại giới đàn Giác Phước PL.2568 – DL.2024
Ban Trị sự TP.Hà Nội và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn tổ chức tọa đàm tại chùa Bằng
Học viện PGVN tại Hà Nội kỷ niệm 42 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11
Văn phòng Hội đồng Chứng minh thông báo về việc cấp phát học bổng Đức Nhuận (toàn phần) năm 2024
Ninh Bình: Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia tưởng niệm nạn nhân tử vong do tai nạn giao thông